Lao động nữ dệt may giảm 14% giờ làm do dịch

Covid-19 khiến tổng số giờ làm của lao động ngành gia công sụt giảm, riêng công nhân nữ may mặc chịu tác động nặng nhất, giảm 14%.

Tại hội thảo về thúc đẩy bình đẳng giới và phục hồi kinh tế sau đại dịch chiều 18/5, TS Khuất Thu Hồng, Giám đốc Viện Nghiên cứu phát triển xã hội (ISDS), đánh giá Covid-19 đã gây nên những hệ lụy chưa có tiền lệ, làm tăng tỷ lệ thất nghiệp ở lao động nữ trẻ tuổi, khiến họ phải làm thêm nhiều hơn nam giới khi mở cửa trở lại.

Nữ công nhân May 10 (Hà Nội) trong dây chuyền sản xuất áo sơ mi, tháng 3/2022. Ảnh: Hồng Chiêu

Nữ công nhân May 10 (Hà Nội) trong dây chuyền sản xuất áo sơ mi, tháng 3/2022. Ảnh: Hồng Chiêu

Nghiên cứu năm 2021 cho thấy đại dịch làm giảm 9% tổng số giờ làm việc của các ngành gia công, sản xuất, ảnh hưởng khoảng 5,1 triệu phụ nữ làm việc trong lĩnh vực này. Lao động nữ ngành dệt may chịu tác động nặng nhất khi tổng số giờ làm việc giảm 14% so với trước dịch, nhiều người bị chuyển việc, tạm hoãn hợp đồng. Trong khi đó với các ngành tập trung nhiều nam giới như xây dựng, giao thông và hậu cần kho bãi, hành chính công, quốc phòng, tổng số giờ làm chỉ giảm nhẹ, thậm chí còn tăng lên.

Theo bà Hồng, phụ nữ đang gặp nhiều định kiến, rào cản khiến khó phát huy năng lực để đóng góp nhiều hơn cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Lương bình quân của lao động nữ thấp hơn nam giới gần 30% và tại nhiều nhà máy, họ luôn đối diện với nguy cơ bị quấy rối tình dục.

Việt Nam dù đã có những bước tiến dài trong thu hẹp khoảng cách giới, như Luật Bảo hiểm xã hội có thêm chế độ thai sản cho nam giới, nghỉ khi vợ sinh con. Bộ luật Lao động giảm khoảng cách nghỉ hưu giữa nam và nữ từ 5 năm xuống còn 2 năm vào năm 2035…, song khoảng cách giới còn tồn tại dai dẳng.

Điều này thể hiện ở tỷ lệ lao động nữ trong độ tuổi làm việc tham gia bảo hiểm xã hội chiếm 60%, cao hơn nam giới, nhưng đến tuổi về hưu tình hình lại đảo ngược. Khoảng 16% phụ nữ trên 65 tuổi có lương hưu từ BHXH, trong khi tỷ lệ nam giới là 27,3%. Đến 80 tuổi, tỷ lệ này giảm ở nữ còn 6,9% và 25,9% ở nam.

“Phần lớn lao động nữ trong các ngành gia công, may mặc từ làng quê mà đi, hết tuổi lao động lại trở về với đất đai, ruộng đồng. Nhưng phụ nữ sở hữu đất nông nghiệp thấp hơn 14% so với nam giới cũng sẽ là vấn đề nan giải trong tương lai”, TS Hồng gợi mở vấn đề.

Giờ tan ca của công nhân da giày Pouyuen (quận Bình Tân, TP HCM). Thống kê khoảng 75% lao động ngành da giày, dệt may là nữ. Ảnh: Hữu Khoa

Giờ tan ca của công nhân da giày Pouyuen (quận Bình Tân, TP HCM). Thống kê khoảng 75% lao động ngành da giày, dệt may là nữ. Ảnh: Hữu Khoa

Bà Đỗ Hồng Vân, Quyền trưởng ban nữ công, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, cho biết công nhân ngành dệt may, da giày tuổi đời dao động 25-40 trong giai đoạn sinh đẻ và nuôi con nhỏ. Phụ nữ tuổi này có sức bền, sức trẻ, là ưu thế nhưng cũng là thách thức, khi trình độ lao động phổ thông và dưới phổ thông chiếm trên 80%, chủ yếu qua đào tạo sơ cấp, ngắn hạn dưới 3 tháng. Cơ hội thăng tiến, thu nhập của họ không bằng nam giới.

Ngành dệt may, da giày thường làm ca kíp, nhu cầu tăng ca sau dịch bệnh lớn nên ảnh hưởng đến việc chăm sóc con nhỏ, nghỉ ngơi của lao động nữ. Theo bà Vân, cần đẩy mạnh thỏa ước lao động tập thể; tạo môi trường làm việc an toàn để giảm thiểu quấy rối tình dục với lao động nữ; xây dựng thiết chế công đoàn tại các khu công nghiệp gắn với nhà ở, nhà trẻ, nơi khám chữa bệnh, giải trí cho công nhân và gia đình.

Chung quan điểm, bà Trần Thị Hồng Liên, Phó giám đốc văn phòng VCCI, nhấn mạnh doanh nghiệp cần chú ý hơn chính sách phúc lợi, đặc biệt với công ty đông lao động nữ. Bà cho biết khoảng 8.000 doanh nghiệp dệt may, da giày đang sử dụng 4,3 triệu lao động và 75% trong đó là nữ giới. Họ đang phải chịu gánh nặng kép vì ngoài công việc còn phải gánh thêm việc nhà, chăm sóc con cái.

Việc sản xuất phục hồi sau đại dịch, tăng giờ làm thêm khiến nhiều công việc dài hơi cần lao động nữ. Theo bà Liên, trước mắt cần giải ngân nhanh những gói an sinh của nhà nước như hỗ trợ tiền trọ, giảm bớt thủ tục, quy trình để công nhân sớm nhận được tiền. Doanh nghiệp cần thêm các gói chăm sóc sức khỏe, tinh thần cho lao động sau Covid-19; tuân thủ quy định của pháp luật về lao động, đặc biệt với lao động nữ nghỉ ốm đau, thai sản, chăm con nhỏ… để họ yên tâm làm việc. Chính sách pháp luật thời gian tới cần có thêm cơ chế hỗ trợ tài chính cho công nhân lao động để họ có thể vượt qua những cú sốc như đại dịch.

Chuyên gia khuyến nghị về lâu dài, Việt Nam cần cải thiện khả năng tiếp cận các chế độ bảo hiểm xã hội và mức hưởng cho lao động nữ. Luật sửa đổi cần bổ sung chế độ nghỉ thai sản cho nam giới khi vợ sinh con; tuyển dụng, trả lương công bằng và có thêm chính sách cân bằng giữa công việc và cuộc sống cho lao động nữ.

Thống kê năm 2021, Việt Nam đang tụt hạng trên bảng xếp hàng toàn cầu về chỉ số khoảng cách giới. Trong đó, chỉ số sức khỏe và sự sống còn của phụ nữ (đo bằng tỷ lệ tử vong bà mẹ, tỷ số giới tính khi sinh) đáng lo ngại nhất, khi Việt Nam từ vị trí 138 vào năm 2016 đã tụt xuống thứ 152 vào năm 2021. Lý do chủ yếu là tâm lý người Việt vẫn ưa thích con trai. Nhiều cặp vợ chồng lựa chọn giới tính thai nhi khiến mỗi năm khoảng 46.000 bé gái không thể chào đời.

Hồng Chiêu