Lao động xa xứ giằng xé vì bỏ trốn, làm chui

Làm việc bất hợp pháp, chị Thanh được trả lương cao hơn, nhưng luôn nơm nớp lo sợ bị phát hiện, trục xuất.

Cuối năm 2013, chị Thanh, 47 tuổi, quê huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, hết hợp đồng ba năm làm việc ở Đài Loan. Những ngày làm việc ở xứ người đã giúp chị trả hết nợ, nuôi ba con ăn học, xây được căn nhà một tầng khang trang ở quê.

Trong cuộc trò chuyện với con trai 15 tuổi cận kề ngày về nước, nghe con nói “nhà mình đang nợ 100 triệu đồng vì xây nhà đội chi phí”, chị vội gọi cho chồng: “Ở quê mình thu nhập thấp, biết bao giờ mới trả xong 100 triệu đồng đây? Đoàn tụ mà cả nhà sống chật vật như xưa thì thà em chịu khổ…”.

Nhiều đêm sau đó chị mất ngủ, đấu tranh với bản thân. “Anh vì thương vợ nên không dám bảo ở lại, song tôi hiểu là ngầm đồng ý”, chị kể. Vài ngày trước khi kết thúc hợp đồng tại công ty lắp ráp linh kiện điện tử, chị bỏ ngang, trốn ra ngoài làm việc cho một trang trại trồng rau.

Chị thuê một phòng trọ 3,2 triệu đồng/tháng, đi làm về luôn khóa trái cửa, hạn chế tiếp xúc người ngoài. Hàng ngày, chị thức dậy lúc 2h đến trang trại trồng và hái rau, đóng thùng carton để bà chủ chở đi nhập cho đối tác. Có ngày làm việc hơn 15 tiếng, về phòng ăn tạm tô mì, chị lả đi trong lúc nói chuyện điện thoại với chồng. “Gia đình là động lực mỗi khi làm việc kiệt sức”, chị nói.

Thu nhập năm 2013 của lao động Việt tại Đài Loan dao động 10-13 triệu đồng, ra ngoài làm cao hơn, khoảng 16-18 triệu đồng. Đàn ông thường đi xây dựng, làm xưởng cơ khí, phụ nữ làm ở trang trại. Tuy nhiên, họ thường bị công ty quản lý cũ giữ hộ chiếu, thẻ cư trú, phải sống khép mình, tránh nhà chức trách phát hiện, trục xuất.

Một phụ nữ người Việt đang thu hoạch rau tại trang trại ở Đài Loan, tháng 8/2022. Ảnh: Hùng Lê

Một phụ nữ người Việt đang thu hoạch rau tại trang trại ở Đài Loan, tháng 8/2022. Ảnh: Hùng Lê

Không có bảo hiểm, bệnh tật, đau ốm có thể thành cuộc khủng hoảng bởi phí điều trị đắt đỏ, chưa kể dễ bị lộ thân phận cư trú trái phép. Những người như chị Thanh thường tự chữa bệnh tại nhà, chỉ vào viện khi rất nặng, phải phẫu thuật.

Nỗi lo lắng bám đuổi chị Thanh mọi lúc mọi nơi. Đi trên đường trông thấy cảnh sát, mặt chị tái mét. Có lần, bà chủ lái ôtô bán tải chở chị cùng một đồng hương đến trang trại thì bị cảnh sát tuýt còi. “Thế là hết, ôm đống nợ rồi”, chị nhắm mắt nghĩ trong lúc nắm chặt tay đồng hương. Song, hôm đó chị thoát vì cảnh sát không kiểm tra giấy tờ, chỉ phạt bà chủ lỗi chở người sau thùng xe.

Hơn 8 tháng, chị Thanh trả được 100 triệu đồng tiền nợ xây nhà. Định về quê, chị lại bước vào một cuộc đấu tranh tư tưởng mới. Con cả chuẩn bị vào cấp ba, hai đứa kề cận học cấp hai lực học tốt. “Về bây giờ, con học lên cao lấy tiền đâu mà chi trả?”, chị nghĩ, không đành lòng để con mình dừng học.

Chị tính toán nếu ba con vào đại học, mỗi tháng phải chu cấp ít nhất 10 triệu đồng. Về quê, hai vợ chồng đi phụ hồ, làm ruộng kiếm sao nổi số tiền đó, chưa kể tiền trang trải cuộc sống hàng ngày. Chị lại tặc lưỡi, dấn thêm vài năm. Nhờ những khoản kiều hối chị gửi về, hai con trai đầu của chị đã tốt nghiệp đại học ngành kinh tế và luật, công việc ổn định, con gái út năm nay vào lớp 12.

Cũng trải qua cuộc giằng co ở lại công ty hay bỏ ra ngoài, Long, 25 tuổi, quê huyện Yên Thành, Nghệ An nói đó là quyết định rất khó nhọc, chủ yếu do “tức nước vỡ bờ”. Sang Nhật Bản năm 2019 với chi phí gần 150 triệu đồng, Long luôn tự nhủ kiếm chút vốn rồi về quê ổn định cuộc sống.

Long đang làm việc tại một quán ăn tại Nhật Bản hồi cuối tháng 8/2022. Ảnh: Hải Bình

Long đang làm việc tại một quán ăn tại Nhật Bản hồi cuối tháng 8/2022. Ảnh: Hải Bình

Sau một tháng học tiếng, Long được tuyển vào công ty điện lạnh, chuyên lắp đặt điều hòa, mỗi ngày 8 tiếng. Trong thỏa thuận đơn hàng, thu nhập mỗi tháng chưa tăng ca khoảng 30 triệu đồng tiền Việt Nam. “Song thực tế không như vậy, ngay tháng thứ hai tôi phải tăng giờ làm mà không được tăng tiền công, nơi làm việc thì liên tục thay đổi”, Long nói.

Long cùng nhiều lao động Việt liên hệ với nghiệp đoàn bản địa nhờ hỗ trợ, nhưng không nhận được phản hồi tích cực. Nhóm công nhân phản kháng bằng cách chỉ làm mỗi ngày 8 tiếng, mặc cho quản lý tỏ thái độ không hài lòng, liên tục hối thúc.

“Hôm nào tới công trình, lao động Việt cũng bị dọa sẽ trả về nước”, Long kể. Làm việc trong không khí căng thẳng, cậu và một số bạn tính bỏ ra ngoài tìm việc. “Liệu có kiếm được việc làm ngay hay không, lỡ thất nghiệp dài thì tiền đâu để bám trụ. Không may bị phát hiện, trục xuất về nước thì ai sẽ trả nợ thay”, Long nhớ lại lời chất vấn của một đồng hương.

Hơn hai tuần cân nhắc, Long cùng hai người khác quyết định bỏ trốn sau khi nhận tháng lương thứ hai. Họ chấp nhận đánh cược tương lai của bản thân và nguy cơ đổ nợ lên vai bố mẹ nếu bị bắt.

Long chia sẻ về quyết định bỏ công ty ra ngoài làm việc.

Thuê một phòng trọ rộng vài chục mét vuông, hàng ngày ba thanh niên tự nấu ăn rồi lên mạng xã hội tìm việc qua các hội, nhóm. Sau một tuần, Long được nhận làm shipper, hai bạn xin vào xưởng chế biến thực phẩm. Long sắm xe đạp cũ đi giao hàng. Mỗi ngày cậu đạp xe 100 km, cao điểm 140 km trong hơn 10 tiếng, tháng lương cao nhất gần 80 triệu đồng.

Thu nhập khá, nhưng rủi ro luôn rình rập. Một lần cậu đang ngồi nghỉ ở công viên thì hai cảnh sát xuất hiện mời về đồn kiểm tra giấy tờ. “Em đạp xe đi trước, cảnh sát theo sau. Lúc dừng đèn đỏ em đánh liều bỏ chạy, họ đuổi khoảng 3 km thì bỏ cuộc”, Long kể.

Gần 3 năm lao động bất hợp pháp, Long trải qua bốn công việc. Khoản nợ vay làm thủ tục xuất ngoại đã trả xong, cậu tiết kiệm được hơn 600 triệu đồng. “Biết bỏ trốn là phạm pháp, ảnh hưởng nhiều người khác, nhưng thực sự em chả còn cách nào. Nhiều lao động Việt cũng rơi vào hoàn cảnh giống em khi xưa, đang đấu tranh tư tưởng giữa bỏ trốn hay làm theo đúng hợp đồng”, Long nói.

Long và chị Thanh nằm trong số hàng nghìn lao động Việt cư trú bất hợp pháp ở nước ngoài, đa phần ở Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Âu. Chính vì tỷ lệ bỏ trốn cao, Đài Loan dừng tiếp nhận lao động giúp việc gia đình vào tháng 1/2005 và đóng cửa tới giữa năm 2015 mới mở lại. Từ năm 2013 đến 2016, Hàn Quốc ngừng gia hạn tiếp nhận mới lao động Việt Nam, chỉ ký hai ghi nhớ đặc biệt có hiệu lực đối với một số nhóm.

Nhiều địa phương đang “đau đầu” về vấn đề này, đã có rất nhiều cuộc vận động lao động hồi hương, nhưng kết quả hạn chế.

*Tên nhân vật đã thay đổi.

Đức Hùng – Nguyễn Hải